Theo dòng chảy lịch sử
Từ xưa cho đến nay,
Nước ta có quốc hiệu
Và tên nước sau đây.
1
VĂN LANG (Thiên niên kỷ 1 đến 258 TCN)
Văn Lang là quốc hiệu
Đầu tiên của nước ta.
Từ thiên niên kỷ một
Đến thế kỷ thứ ba.
Đây là thời dựng nước
Các triều đại vua Hùng,
Gồm Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh
Và châu thổ sông Hồng.
Kinh đô nhà nước ấy
Đặt ở đất Phong Châu,
Nay thuộc tỉnh phú Thọ,
Làm ruộng và trồng dâu.
2
ÂU LẠC (257 – 208 TCN)
Âu Lạc là nhà nước
Thời Thục An Dương Vương.
Gồm Âu Việt, Lạc Việt,
Hai bộ tộc hùng cường.
Lãnh thổ gồm phần đất
Của Văn Lang trước đây,
Cộng thêm vùng Đông Bắc
Và một phần Quảng Tây.
Nhà nước này tồn tại
Năm mươi năm, không nhiều,
Vì Triệu Đà đánh chiếm
Bằng quỉ kế tình yêu.
3
VẠN XUÂN (544 - 602 SCN)
Trong thời gian ngắn ngủi
Độc lập khỏi Trung Hoa,
Vạn Xuân là quốc hiệu
Của đất nước chúng ta.
Đó là thời Tiền Lý.
Năm Năm Trăm Bốn Hai,
Lý Bí khởi nghĩa lớn,
Khiến quân Lương chạy dài.
Ông xưng vương, thật tiếc,
Chỉ năm mươi năm sau
Bị nhà Tùy đánh bại,
Sáp nhập vào nước Tàu.
Năm trăm năm sau đó,
Ngô Quyền cùng nghĩa quân
Thắng Nam Hán, lấy lại
Tên nước là Vạn Xuân.
4
ĐẠI CỒ VIỆT (968 – 1052)
Đại Cồ là to lớn.
Thêm chữ Việt, lần đầu
Được ghép vào tên nước
Cho các triều đại sau.
Đó là tên quốc hiệu
Tính từ thời nhà Đinh,
Qua Tiền Lê đến Lý,
Một thời đại quang vinh.
Năm Một Không Năm Bốn,
Lý Thánh Tông lên ngôi,
Đổi tên thành Đại Việt,
Cho ngắn gọn mà thôi.
5
ĐẠI VIỆT (1054 - 1743)
Quốc hiệu này hiện tại
Được nhiều người biết hơn.
Qua các triều nhà Lý,
Trần, Lê, Mạc, Tây Sơn.
Tên Đại Việt tồn tại
Bảy trăm bốn ba năm.
Thời nhà Hồ gián đoạn
Khoảng gần ba mươi năm.
6
ĐẠI NGU (1400 - 1407)
Đại Ngu là quốc hiệu
Dưới thời Hồ Quý Ly.
Ngu là vui, là tốt,
Chứ không phải ngu si.
Ngu là vua Ngu Thuấn
Thời cổ đại Trung Hoa.
Hồ Quí Ly tự nhận
Hậu duệ của ông ta.
Sau khi nhà Hồ mất,
Nhà Minh đô hộ ta.
Hai mươi năm cướp bóc
Và tội lỗi xấu xa.
7
VIỆT NAM (1804 - 1839)
Sau khi diệt Nguyễn Huệ,
Vua Gia Long cho người
Sang Trung Hoa hòa hiếu,
Xin vua Thanh, con trời,
Duyệt quốc hiệu Nam Việt,
An Nam và Việt Thường,
Nhưng vua Thanh không chịu,
Là vì thời nhà Thương
Đã có một nước lớn
Từng mang cái tên này.
Rồi đến thời nhà Triệu
Ở Quảng Đông, Quảng Tây.
Vua Thanh bắt đổi ngược
Thành Việt Nam, thế là
Hai chữ thân thiết ấy
Thành tên của nước ta.
8
ĐẠI NAM (1839 - 1945)
Minh Mạng lên ngôi báu.
Việc đầu tiên ông làm
Là xin đổi tên nước,
Việt Nam thành Đại Nam.
Đại có nghĩa là lớn,
Tức nước Nam khổng lồ.
Vua nhà Thanh thấy chối
Nên nhất định không cho.
Khi nhà Thanh suy yếu,
Không thèm xin Trung Hoa,
Minh Mạng đổi quốc hiệu,
Đại Nam, tên nước ta.
Các vua Nguyễn dùng nó
Trong hơn một trăm năm,
Cho đến lúc Bảo Đại
Thoái vị năm bốn lăm.
9
ĐẾ QUỐC VIỆT NAM
(Tháng 4 đến tháng 8 năm 1945)
Sau Nhật Đảo chính Pháp,
Tháng tư năm bốn lăm,
Bảo Đại đặt quốc hiệu
Là Đế Quốc Việt Nam.
Danh nghĩa là độc lập,
Nhưng thực chất bù nhìn.
Người đứng đầu chính phủ
Là ông Trần Trọng Kim.
Chính phủ ông tồn tại
Chỉ mấy tháng hòa bình,
Cho đến khi cả nước
Lọt vào tay Việt Minh.
10
QUỐC GIA VIỆT NAM (1949 - 1955)
Tháng Ba năm bốn chín,
Theo Hiệp Ước Elyseé,
Một Hiệp Ước hợp tác,
Kiểu Pháp Việt Đề Huề,
Thì nước ta được gọi
Là Quốc Gia Việt Nam.
Gồm các phần lãnh thổ
Chủ yếu ở phía Nam.
Nằm trong Liên Hiệp Pháp,
Đối kháng với Việt Minh,
Quốc trưởng là Bảo Đại,
Một người rất đa tình.
Năm năm lăm, ông Diệm
Đã phế truất ông ta
Và tuyên bố thành lập
Nước Việt Nam Cộng Hòa.
*
Còn hai quốc hiệu nữa
Của cộng sản, phe ta.
Đuôi Xã Hội Chủ Nghĩa
Và Dân Chủ Cộng Hòa.
Các bác đã biết rõ
Hai tên ấy thế nào.
Khỏi cần tôi viết tiếp.
Thôi, khuya rồi, xin chào.
THÁI BÁ TÂN
Theo các bạn có nên thêm tên nước Xích Quỉ thời Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ không? Đó là huyền thoại chứ không phải lịch sử. Và lại xưa nay ta luôn cho rằng người khởi đầu dựng nước là các vua Hùng.
Mời xem thêm video sau đây: